Nội dung chính
Khu Di tích Lịch sử đền Hùng (đền Hùng) nằm trên diện tích 1.030 ha tại thành phố Việt Trì, Phú Thọ. Nơi đây có 4 điểm tham quan chính: đền thờ Quốc tổ Lạc Long Quân trên núi Sim, đền thờ Tổ mẫu Âu Cơ trên núi Vặn, bảo tàng Hùng Vương và đền thờ các vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh (núi Hùng).
Đền Hùng tập hợp nhiều giá trị tinh hoa và đặc sắc của dân tộc, trở thành một phần đặc biệt không thể thiếu trong đời sống tâm linh của con người Việt Nam:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”.
Khu di tích cách trung tâm thành phố Việt Trì 7 km về phía bắc, cách thủ đô Hà Nội 90 km. Từ Hà Nội, bạn có thể đi bằng đường bộ theo quốc lộ 2 hoặc tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai.
Tại khu Di tích Lịch sử đền Hùng:
Ngoài ra, tỉnh Phú Thọ còn tổ chức các hoạt động khác nằm trong khuôn khổ Giỗ Tổ gồm: trình diễn hát Xoan phục vụ khách du lịch tại miếu Lãi Lèn, đình An Thái, đình Hùng Lô (20-29/4), chương trình âm nhạc đường phố, trình diễn trang phục áo dài và xác lập kỷ lục “Non sông gấm vóc” (22/4) tại công viên Văn Lang, hội thi gói và nấu bánh chưng, bánh giày (ngày 27/4) tại khu DTLS.
Đền thờ vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh được xây trên núi có độ cao 175 m. Tương truyền, núi Nghĩa Lĩnh là chiếc đầu rồng hướng về phía nam, mình rộng uốn khúc thành núi Vặn, Trọc. Núi Vặn cao 170 m, núi Trọc nằm giữa cao 145 m. Theo truyền thuyết, ba đỉnh được gọi là “tam sơm cấm địa”, được người dân coi như ba đỉnh núi thiêng.
Trước khi lên đền, du khách phải đi qua cổng đền, đây chính là điểm bắt đầu của chuyến hành hương về thăm vùng đất Tổ, nơi đất gốc phát tích của dân tộc Việt Nam.
Cổng được trang trí theo lối kiến trúc mái vòm, trên nóc có trang trí họa tiết lưỡng long chầu nguyệt. Cổng gồm 2 tầng, cao 8,5m rộng 4,5m. Chính giữa cổng đền trên cao là bức đại tự gồm 4 chữ Hán: Cao sơn cảnh hành (Núi cao đường lớn).
Đền được xây dựng từ thế kỷ 17 đến 18, trải qua nhiều đợt trùng tu (gần nhất năm 2011) nhưng vẫn giữ nguyên được kiến trúc ban đầu. Ngôi nhà có 2 tòa, phía trước là nhà tiền tế và tòa phía sau là hậu cung. Hậu cung là nơi đặt thờ các long ngai bài vị thờ thần núi, thờ các vua Hùng và công chúa Tiên Dung, Ngọc Hoa.
Đền Hạ tương truyền là nơi mẹ Âu Cơ hạ sinh bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con trai. Vì gắn liền với truyền thuyết mẹ Âu Cơ nên về đền Hạ người dân thường cầu nguyện những điều may mắn, tốt đẹp về đường con cái và gia đình, việc sinh nở được vẹn toàn vì quan niệm Mẫu là người bảo trợ cho mẹ tròn con vuông.
Ngay chân Đền Hạ là Nhà bia với kiến trúc hình lục giác, có 6 mái. Trong nhà bia hiện nay đặt bia đá, nội dung ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi về thăm ngày 19/9/1945: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Ngay phía sau đền Hạ là giếng Cổ (giếng Rồng). Tương truyền đây là nơi mẹ Âu cơ đã lấy nước tắm cho các con.
Tên chùa có nghĩa là ánh sáng từ trên trời chiếu rọi. Tương truyền nơi đây khi Âu Cơ hạ sinh bọc trăm trứng, tại vị trí của chùa có luồng ánh sáng chiếu thẳng từ trên trời xuống. Chùa được xây dựng vào khoảng thế kỷ 18-19, thời nhà Trần. Chùa Thiên Quang thờ Phật theo phái Đại thừa. Hiện trong chùa còn giữ 32 pho tượng Phật bằng gỗ được sơn son thiếp vàng.
Trước cửa chùa có cây vạn tuế ba ngọn khoảng 800 tuổi. Ba ngọn tỏa ra 3 hướng tượng trưng cho 3 miền Bắc – Trung- Nam. Ngày 19/9/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi tại gốc cây vạn tuế đó để nghe đồng chí Thanh Quảng, Chánh văn phòng Quân ủy TW và Song Hà, Chính ủy đại đoàn quân tiên phong báo cáo tình hình cũng như kế hoạch tiếp quản Hà Nội.
Sau khi bước qua 159 bậc đá, du khách đến đền Trung nằm lưng chừng núi. Đền Trung có tên chữ là “Hùng Vương tổ miếu” hay miếu thờ tổ vua Hùng. Tương truyền đây là nơi các vua Hùng thường cùng với các lạc hầu, lạc tướng bàn việc nước.
Vào đời Hùng Vương thứ 6, đây cũng là nơi diễn ra cuộc thi tìm người tài để trị vì đất nước. Hoàng tử út Lang Liêu chiến thắng nhờ làm ra món bánh chưng, bánh giày tượng trưng cho trời tròn đất vuông. Vua Hùng khen bánh ngon, ý hay nên đã truyền ngôi. Lang Liêu thành Hùng Vương thứ 7.
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch Đền Hùng ở Phú Thọ
Từ đền Trung, đi khoảng 100 bậc sẽ đến đền Thượng, nằm ở vị trí cao nhất trên núi. Đền có tên chữ là Kính thiên lĩnh điện, nghĩa là điện thờ trời trên núi Nghĩa Lĩnh. Tương truyền, đây là nơi vua Hùng thường lập đàn tế trời cầu quốc thái dân an. Đây cũng là địa điểm chính diễn ra các nghi thức quan trọng nhất trong ngày giỗ Tổ.
Nằm bên trái đền Thượng là cột đá thề. Qua năm tháng, cột đá bị vùi lấp và được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho phép phục dụng, để con cháu hiểu được lời thề của tổ tiên. Tương truyền vào đời Hùng Vương thứ 18, vua Hùng không có con nối dõi đã nghe theo lời khuyên của con rể Tản Viên, truyền ngôi cho người cháu họ là Thục Phán. Thục Phán đã cho dựng cột đá, chỉ tay lên trời thề rằng: Nước Nam sẽ trường tồn, miếu thờ Hùng Vương sẽ còn mãi. Thục Phán sau khi lên ngôi lấy hiệu là An Dương Vương, đặt tên nước là Âu Lạc, dời đô vào Cổ Loa.
Tương truyền đây là mộ của vua Hùng thứ 6, với lời căn dặn rằng: “Khi ta mất hãy chôn ta trên đỉnh núi Cả để ta có thể trông coi bờ cõi cho con cháu”. Mộ được xây dựng ở thế đầu đội sơn chân đạp thủy. Lăng Hùng vương tuy đã trải qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ nguyên kiến trúc ban đầu”: dựa vào sườn núi Hùng và trông ra ngã ba Bạch Hạc.
Trên mỗi mặt tường đều đắp mặt hổ phù, thành bậc đắp kỳ lân, cửa chính của lăng có hai câu đối chữ Nôm nói lên lòng thành kính tri ân của con cháu đối với tổ tiên: “Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản sông Đà non nước vẫn quay về đất Tổ. – Văn minh đương buổi mới, con Hồng cháu Lạc giống nòi còn biết nhớ mồ ông”.
Đi xuống khoảng 600 bậc theo hướng Đông Nam là đền Giếng thờ hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa. Câu chuyện tình giữa công chúa Tiên Dung và Chử Đồng Tử phản ánh khát vọng về tự do yêu đương, tự do hôn nhân. Còn Ngọc Hoa – Sơn Tinh phản ánh về công cuộc trị thủy cũng như để lại một phong tục văn hóa của người Việt: thách cưới.
Đền nằm dưới chân núi. Trên mái đắp tứ linh: long, lân, quy, phụng. Chính giữa tiền sảnh là 3 bức đại tự “Ẩm thủy tư nguyên” (Uống nước nhớ nguồn), “Nam quốc anh hoàng”, “Sơn thủy kim ngọc” (ý nói núi sông quý báu như vàng ngọc).
Tham quan đền thờ các vua Hùng chỉ mất nửa buổi. Do đó, du khách có thể kết hợp thăm các điểm đến trong thành phố như đàn Tịch điền (nơi vua Hùng dạy dân cấy lúa), đền Tiên (thờ vợ vua Kinh Dương Vương, mẹ đẻ Lạc Long Quân), lầu Kén rể nằm trên Cầu vàng ở công viên Văn Lang.
Nếu dự định đi hai ngày, hãy đến đồi chè Long Cốc, săn sương sớm và ngắm bình minh, khu du lịch sinh thái vườn quốc gia Xuân Sơn, khu du lịch khoáng nóng Thanh Thủy…
Xem thêm: Kinh nghiệm du lịch Đền Hùng ở Phú Thọ
Nam mô a di đà Phật! (3 lần)
Kính lạy chín phương trời đất, Mười phương chư Phật, Thánh hiền.
Lạy các Vua Hùng linh thiêng, Gây dựng đất này Tiên tổ.
Con tên là…… địa chỉ……………
Nhân ngày Giỗ tổ con xin gởi đến đấng bề trên chút hương hoa lễ phẩm thể hiện lòng thành của gia đình con đến các Vua Hùng và các bậc tổ tiên.
Kính xin độ trì phù hộ,
Mọi chuyện tốt lành bình an.
Bách bệnh giảm trừ tiêu tan,
Điều lành mang đến vẹn toàn. Điều dữ mang đi, yên ổn.
Đi đến nơi, về đến chốn,
Tai qua nạn khỏi tháng ngày
Cầu được ước thấy, gặp may, Mọi điều hanh thông, thuận lợi.
Con cái học hành tấn tới, Ngoan ngoãn nghe lời mẹ cha. Thi đỗ lớp gần, trường xa, mát mặt gia đình làng nước.
Tình duyên gặp người kiếp trước, Ý trung nhân… xứng muôn phần.
Tình xa duyên thắm như gần, Suốt đời yêu thương nhất mực.
Đi làm… thăng quan tiến chức, Buôn bán một vốn bốn lời.
Hạnh phúc thanh thản một đời.
Nam mô a di đà Phật!
Kính lạy cao xanh Trời đất, Lạy các Vua Hùng linh thiêng. Đức Thánh Trần cõi người hiền, Muôn đời độ trì phù hộ!
Nam mô a di đà Phật! (cúi lạy 3 cái)
Văn khấn là phương tiện vô hình để kết nối giữa người trần và tâm linh. Khi đến với Đền Hùng, các bạn sẽ phải chuẩn bị một bài văn khấn đầy đủ để thể hiện được sự kính trọng, biết ơn đối với các vị vua Hùng. Đồng thời, gửi mong muốn, nguyện vọng để thần linh có thể soi xét và giúp bạn có thể thực hiện. Trong lúc khấn các bạn cần phải thành tâm, nghiêm túc để đúng với không khí tâm linh vốn có.
Ở Đền Hùng có nhiều đặc sản, đồ ăn dặc trưng, bạn có thể ăn thử như: quả cọ, thịt chua với giá từ 40.000 đồng, bánh sắn, gà nhiều cựa, xôi ngũ sắc.
Du khách nếu muốn tham quan hết khu di tích đền Hùng, thì nên ăn trưa tại các nhà hàng trong khuôn viên khu di tích. Nếu chỉ có ý định tham quan đền thờ các vua, nên ghé vào thành phố Việt Trì để có nhiều lựa chọn hơn.
Một số quán ăn trong thành phố ngon như: Cá lăng Sông Đà, quán cá Hà Trì, gà cựa Xuân Thuyết hay nhà hàng Cội Nguồn để nếm thử món bánh sắn. Giá mỗi bữa ăn trung bình khoảng 200.000 đồng một người.
Với những chia sẻ kinh nghiệm du lịch đền Hùng trên đây hi vọng bạn sẽ có một chuyến hành trình thật suôn sẻ và bình an.
Bình luận
Bài viết mới
Bài viết liên quan